Sự rõ ràng được thể hiện ngay trong đề cương, và những phần liên quan đến nhau thì đi cùng nhau theo một trật tự nhất định. Ví dụ: Đọc sách chính là học là một câu đơn giản, nhưng nếu lúc này ta hiểu học là thu nhận thông tin, lúc khác lại hiểu học là nâng cao hiểu biết thì rõ ràng nhận định đã thay đổi theo sự thay đổi của thuật ngữ trong khi câu đó không có gì thay đổi. Điều này càng quan trọng hơn nếu sự kiện chúng ta muốn tìm hiểu mang một ý nghĩa thực tế nào đó đối với chúng ta.
Xây dựng một hệ thống thuật ngữ trung tính về chủ đề mà ta cho rằng tất cả hoặc đa số tác giả đều sử dụng đến chúng, dù họ có thật sự dùng hay không. Theo nghĩa này, thơ ca và truyện có chức năng vừa giải trí vừa răn dạy. Immanuel Kant đã viết hai tác phẩm triết học nổi tiếng là The Critique of Pure Reason (Bàn về suy luận thuần tuý) và The Critique of Practical Reason (Bàn về suy luận mang tính thực hành).
Mỗi từ đó là một thuật ngữ. Nhận diện những từ quan trọng chỉ là bước khởi đầu giúp bạn xác định các phần cần đặc biệt lưu ý trong văn bản. Nếu bạn không thể minh hoạ hay mô tả nhận định, dù bằng tưởng tượng hay nêu kinh nghiệm, nghĩa là bạn không biết gì về vấn đề đang được bàn luận.
Nếu ai đó khuyên bạn nên tìm nghĩa của một cuốn sách mà bạn không hiểu bằng cách đọc trước các lời bình thì đó là một lời khuyên tồi. Trong trường hợp thứ nhất, giả định có thể là bất cứ điều gì miễn là tồn tại lập luận. Hãy để trí óc của bạn hoạt động trong quá trình đọc sách.
Vì thế, hai ông đã xây dựng một mục lục đầy tính phân tích để báo trước cho người đọc phần trình bày nội dung chi tiết. Khi một đứa trẻ có thể kể tên tất cả các cách kết hợp đã được xác định, coi như em đã thông thuộc bảng chữ cái. Ví dụ, bạn sẽ không thể tìm thấy trong bất cứ sách tham khảo nào câu trả lời cho ba câu hỏi mà Chúa đã hỏi thiên thần trong câu chuyện What Men Live By (Con người sống bằng gì) của Tolstoy.
Trì hoãn đưa ra nhận xét cũng là một hành động phê bình. Như đã nói, Plato nêu lên những vấn đề triết học trường tồn; Socrates thông qua các mẩu đối thoại đã nêu lên những câu hỏi tuy đơn giản nhưng sâu sắc như trẻ em thường hỏi; Aristotle thì nhìn nhận những phản đối của các nhà triết học khác và trả lời họ. Ở Mỹ, trẻ thường bắt đầu giai đoạn này bằng việc học một số từ có tính trực quan, và cố gắng học thành thạo khoảng ba, bốn trăm từ khi kết thúc năm học đầu tiên.
Trong chương này, chúng tôi sẽ đề cập những vấn đề liên quan đến các cấp độ đọc. Sách thực hành bao gồm những cuốn sách mô tả nghệ thuật dành cho người học; những cuốn sổ tay về bất cứ lĩnh vực nào như cơ khí, y khoa, nấu ăn; và cả những sách chuyên luận về kinh tế, đạo đức hay chính trị. Thay vì đọc nó như đọc một cuốn lịch sử, người đọc phải hiểu là có thể nó đã bị làm thiên lệch đôi chút theo cách mà bạn bè và người quen của nhân vật muốn anh ta được người khác biết đến.
Đó là, bạn chỉ nên tìm kiếm sự trợ giúp bên ngoài sau khi đã cố hết sức đọc một cuốn sách theo các quy tắc đọc bên trong mà vẫn khó hiểu đối với bạn, trong từng phần hoặc toàn bộ. Lúc này, bạn sẽ nhớ lại bước đầu tiên một người đọc phân tích phải làm là trả lời câu hỏi Cuốn sách đó thuộc loại nào?. Suốt thế kỷ XIX, tại châu Mỹ, người ta chủ yếu dùng phương pháp ABC để dạy học đọc.
Họ biết họ có phải học cách phối hợp các quy tắc với nhau thành thạo như thế nào. Thứ hai, các bài tóm tắt rất hữu ích khi bạn đọc những cuốn sách cùng chủ đề hoặc khi bạn muốn biết liệu một tác phẩm nào đó có phù hợp với công trình nghiên cứu của mình không. Đặt giả thuyết không phải là việc khó.
Những vấn đề Aristotle bàn đến trong các chuyên luận và những cách hành văn khác nhau mà ông dùng để trình bày những phát hiện của mình đã giúp tạo nên một số chuyên ngành và cách tiếp cận môn triết học ở những thế kỷ tiếp theo. Loại thứ hai rõ ràng là những tác phẩm vĩ đại, có sức sống mạnh mẽ qua nhiều thế hệ. Nếu không đọc theo cách đó, một cuốn sách thực hành sẽ không được coi là sách thực hành.